Bệnh sỏi ống mật chủ hay con còn gọi là sỏi đường mật là một căn bệnh khá phổ biến ở nước ta khi chiếm đến hơn 80% trong tổng số bệnh nhân bị sỏi mật. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như gây tắc mật, gây viêm, chảy máu đường mật, viêm tụy cấp… Vậy bệnh sỏi trong ống mật chủ là gì? Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị như thế nào? Cùng tìm hiểu ngay qua bài viết sau đây.
Sỏi ống mật chủ là gì?
Sỏi ống mật chủ là sỏi nằm trong đường dẫn mật (ống mật chủ) nên còn được gọi là sỏi đường mật. Ống mật chủ là ống dẫn dịch mật trực tiếp từ gan xuống tá tràng để hỗ trợ tiêu hóa thức ăn. Trong quá trình dịch mật chảy từ gan xuống tá tràng thì sẽ có khoảng 5% dịch mật được đổ vào túi mật và dự trữ ở đó.
>> Xem thêm trang chủ: https://dakhoahoancauquan5.blogspot.com/
Do vậy, ống mật chủ rất quan trọng trong việc lưu thông dịch mật. Nếu xuất hiện sỏi ở ống mật chủ sẽ làm giảm đáng kể lượng dịch mật xuống tá tràng, gây đầy chướng, chậm tiêu. Kích thước sỏi lớn sẽ gây tắc nghẽn đường mật, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm đe dọa đến tính mạng người bệnh như viêm túi mật, viêm đường mật, viêm tụy cấp…
Do vậy, ống mật chủ rất quan trọng trong việc lưu thông dịch mật. Nếu xuất hiện sỏi ở ống mật chủ sẽ làm giảm đáng kể lượng dịch mật xuống tá tràng, gây đầy chướng, chậm tiêu. Kích thước sỏi lớn sẽ gây tắc nghẽn đường mật, dẫn đến các biến chứng nguy hiểm đe dọa đến tính mạng người bệnh như viêm túi mật, viêm đường mật, viêm tụy cấp…
Vị trí của sỏi trong túi mật, sỏi trong ống mật chủ - Ảnh minh họa |
Nguyên nhân hình thành sỏi trong ống mật chủ
Sỏi ống mật chủ có thể được hình thành trong ống mật chủ (thường là sỏi sắc tố nâu) hoặc sỏi từ đường mật trong gan hay túi mật (sỏi cholesterol) di chuyển xuống ống mật chủ. Kích thước sỏi nhỏ thì có thể qua được cơ vòng Oddi xuống tá tràng, ra hậu môn và gây ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh. Nhưng nếu kích thước sỏi lớn thì sẽ bị mắc kẹt lại ở ống mật chủ, gây tắc nghẽn đuờng mật hoặc viêm tụy cấp nếu sỏi ở đường chung tụy mật.
Nguyên nhân chính hình thành sỏi sắc tố ở ống mật chủ là do nhiễm khuẩn, nhiễm kí sinh trùng. Vi khuẩn gây tổn thương thành đường mật khiến các tế bào viêm loét bong vào dịch mật, đồng thời làm kết tủa một số thành phần của dịch mật (sắc tố mật, muối mật) và tạo thành các viên sỏi. Một số trường hợp khác, giun chui lên ống mật mang theo trứng hoặc xác giun ở trong ống mât sẽ là nhân sỏi cho sắc tố mật lắng đọng bám vào, phát triển dần thành sỏi ống mật chủ.
Bên cạnh đó, phụ nữ có thai hoặc thời kì tiền mãn kinh, người bệnh đái tháo đường, béo phì… là những đối tượng có nguy cơ cao mắc sỏi mật do có sự thay đổi chuyển hóa, nội tiết trong cơ thể. Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo độ tuổi, gặp ở phụ nữ nhiều hơn nam giới và đặc biệt ở những người đã phẫu thuật cắt bỏ túi mật sau 3 năm thì nguy cơ hình thành sỏi ống mật chủ rất cao.
Cấu tạo của hệ thống gan, túi mạt, ống mật chủ, tá tràng trong cơ thể- Ảnh minh họa. |
Dấu hiệu, triệu chứng của bệnh sỏi ống mật
Bệnh sỏi mật nói chung thường không xuất hiện các triệu chứng hoặc chỉ xuất hiện các triệu chứng mơ hồ như đầy chướng, chậm tiêu. Tuy nhiên khi đường mật bị tắc nghẽn thì sẽ xuất hiện 3 triệu chứng điển hình (tam chứng Charcot) là: đau hạ sườn phải, sốt, vàng da. Đặc biệt với sỏi ở ống mật chủ thì các triệu chứng trên sẽ tái phát nhiều lần.
- Vàng da: là triệu chứng xảy ra muộn nhất, sau 24 – 48h xuất hiện triệu chứng đau, sốt. Dịch mật bị tắc nghẽn và ứ đọng ở gan, bilirubin trong dịch mật vào máu gây vàng da, vàng niêm mạc mắt.
- Sốt: Dịch mật ứ trệ tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển mạnh mẽ. Vi khuẩn tiết ra nội độc tố gây sốt cao 39 – 40°C, run lạnh, vã mồ hôi. Triệu chứng sốt thường xuất hiện sau 2 – 3h xảy ra các cơn đau quặn.
- Đau hạ sườn phải: Các cơn đau thường xuất hiện đột ngột, dữ dội và kéo dài, có thể sau ăn 1 – 2h hoặc xảy ra tại bất kì thời điểm nào trong ngày. Đau lan lên ngực hoặc ra sau lưng. Nguyên nhân gây ra các cơn đau thường do sỏi di chuyển hay do tăng co bóp ống mật, tăng nhu động túi mật và tăng áp lực đường mật.
- Ngoài ra còn xuất hiện một số triệu chứng khác như: Nôn, buồn nôn, ngứa (do nhiễm độc muối mật), vàng mắt, nước tiểu vàng sẫm (do sắc tố mật đào thài qua nước tiểu), phân bạc màu (do thiếu sắc tố mật).
Triệu chứng, biến chứng của sỏi ống mật chủ. |
Biến chứng nguy hiểm của bệnh sỏi trong ống mật chủ
Sỏi ống mật có thể gây tắc nghẽn đường mật, dẫn đến nhiễm trùng và sinh ra các biến chứng tại chỗ (viêm đường mật, chảy máu đường mật, viêm phúc mạc mật…) hay toàn thân (shock nhiễm trùng, viêm tụy cấp, suy thận cấp…).
Các biến chứng do sỏi ống mật chủ gây ra đều có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh. Do đó mục tiêu điều trị chính của bệnh là phòng ngừa các biến chứng và cải thiện các triệu chứng, giúp người bệnh chung sống hòa bình với sỏi, nâng cao chất lượng cuộc sống người bệnh.
- Viêm đường mật, viêm túi mật: Do vi khuẩn đường mật gây ra. Khi kích thước sỏi ống mật chủ lớn sẽ làm tắc nghẽn, ứ đọng dịch mật ở đường mật trong gan, ống mật, túi mật. Đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát triển mạnh mẽ và gây nhiễm trùng, viêm đường mật.
- Rối loạn đông máu và chảy máu đường mật: Tắc nghẽn đường mật do sỏi sẽ gây ứ mật trong gan và suy giảm chức năng gan. Các tế bào gan sẽ giảm tổng hợp Prothrombin và các yếu tố đông máu khác. Đồng thời dịch mật bị thiếu hụt sẽ giảm hấp thu các chất béo, đặc biệt là vitamin K – vitamin cần thiết trong quá trình tổng hợp Prothrombin. Mặt khác, nhiễm trùng đường mật gây tổn thương thành ống dẫn mật, do đó cũng gây tổn thương các mạch máu, dễ dẫn đến chảy máu đường mật. Vì vậy, chảy máu đường mật là biến chứng rất dễ xảy ra trong nhiễm trùng đường mật.
- Viêm mủ đường mật: Tắc mật gây nhiễm khuẩn đường mật và ngược lại, do đó nếu bệnh không được phát hiện sớm thì tình trạng nhiễm trùng sẽ ngày càng nặng hơn và tạo thành các ổ mủ, viêm nặng.
- Áp xe đường mật, áp xe gan: Nhiễm trùng đường mật ngoài gan tiến triển nặng sẽ gây áp xe đường mật và ổ mủ sẽ đi ngược lên đường mật trong gan, tạo thành áp xe gan.
- Viêm phúc mạc mật: Tắc nghẽn dịch mật gây tăng áp lực trong đường mật và nhiễm trùng gây giãn túi mật, phù nề thành đường mật sẽ làm dịch mật thấm dần vào phúc mạc. Dịch mật nhiễm khuẩn vào ổ bụng, khu trú ở hạ sườn phải hoặc lan ra khắp ổ bụng gây viêm phúc mạc. Đây là biến chứng rất nguy hiểm, cần phải can thiệp ngoại khoa cấp cứu kịp thời.
- Viêm tụy cấp: Là biến chứng ít gặp, do sỏi bị mắc kẹt ở ngã ba tụy mật, đoạn gần cuối ống mật và gây trào ngược dịch mật vào tụy.
- Hội chứng gan thận: Đây là biến chứng nhiễm trùng nặng nhất do sỏi ống mật chủ gây ra. Người bệnh có nguy cơ tử vong rất cao và cần được điều trị chăm sóc đặc biệt với các biện pháp hỗ trợ chức năng gan, thận, kết hợp với điều trị nhiễm trùng.
Cách điều trị sỏi ống mật chủ
Điều trị phẫu thuật
Phẫu thuật kinh điển (mổ hở)
Mở ống mật chủ lấy sỏi dẫn lưu Kehr: Phương pháp này trước đây đang được sử dụng thường quy để điều trị ngoại khoa sỏi ống mật chủ. Từ xa xưa cho đến nay vấn đề chủ yếu vẫn là phương pháp điều trị phẫu thuật, mổ bụng và tiến hành các thao tác trên đường mật tuỳ theo các tổn thương bệnh lý của nó.
Chỉ định:
Mổ cấp cứu: Thường chỉ định trên bệnh nhân có biến chứng của sỏi đường mật: như thấm mật phúc mạc, viêm phúc mạc mật do hoại tử túi mật, hoại tử đường mật ngoài gan...
Mổ cấp cứu trì hoãn: Chỉ định trong các trường hợp sỏi đường mật kèm theo sốc nhiễm trùng cần phải hồi sức nội một thời gian ngắn, khi tình trạng bệnh tạm ổn định, thực hiện phẫu thuật.
Mổ theo kế hoạch: Được chỉ định ở các bệnh nhân có sỏi mật chưa có biến chứng.
Các phương pháp phẫu thuật
Mục đích của phẫu thuật là lấy sỏi và dị vật đường mật, tạo sự lưu thông mật - ruột, dẫn lưu đường mật hoặc mổ nhẹ thì đầu cấp cứu để chuẩn bị cho lần mổ tiếp theo triệt để hơn.
Vấn đề sỏi ống mật chủ đơn thuần và sỏi túi mật đơn thuần cho đến nay ít có bất đồng về chỉ định và phương pháp phẫu thuật; việc lấy sỏi thường ít gặp khó khăn. Tuy nhiên đối với những viên sỏi cắm chặt và phần thấp của ống mật chủ, việc lấy sỏi cần được lưu ý hơn để tránh tổn thương cơ Oddi và tuỵ tạng.
Đối với sỏi đường mật trong gan dễ bị bỏ sót trong khi mổ hoặc không phát hiện hết khi thăm dò hoặc không thể lấy hết sỏi ra được. Hiện nay ở Việt Nam lấy sỏi chủ yếu vẫn là nhờ dụng cụ Mérizzi hoặc Desjardin có các cỡ số độ cong thích hợp để xoay sở trong việc lấy sỏi. Dùng ống sonde Nelaton cho sâu vào trong gan rồi dùng nước ấm bơm súc rửa để lấy sỏi nhỏ và dị vật nhỏ.
Đối với sỏi nằm sâu trên cao hoặc trong các ống gan hạ phân thuỳ, việc lấy sỏi cần có soi đường mật trong mổ hoặc dùng các sonde như Dormia hoặc Fogarty để lấy sỏi dễ dàng hơn các dụng cụ cứng.
Đối với bệnh sỏi gan trái: Nhờ nhu mô gan mỏng sờ thấy sỏi mà không thể lấy qua đường ống mật chủ, một số tác giả có khuynh hướng mở nhu mô gan lấy sỏi, nhưng thường bị rò mật, có khi gây viêm phúc mạc sau mổ cũng rất nguy hiểm, do vậy đối với trường hợp đường mật bị nhiễm trùng thì không có chỉ định này.
Sau khi giải quyết lấy sỏi và dị vật đường mật phải khâu ống mật chủ, để đảm bảo an toàn cho đường khâu ống mật chủ ta thường dẫn lưu dịch mật bằng sonde Kehr. Mục đích chính là làm giảm áp lực đường mật, theo dõi diễn biến đường mật sau mổ và lợi dụng sonde Kehr để chụp kiểm tra đường mật trong hoàn cảnh mổ sỏi mật ở Việt Nam.
Phương pháp dẫn lưu dịch mật trong cơ thể bằng cách nối mật ruột với nhiều kỹ thuật. Phương pháp này được chỉ định trong trường hợp có hẹp cơ Oddi, chít hẹp đường mật, sỏi mật kèm theo nang ống mật chủ. Ngoài ra sỏi mật trong gan rải rác nhiều nơi, nhiều sỏi hoặc sỏi mật đã phải mổ đi mổ lại nhiều lần.
Có nhiều phương pháp nối mật-tiêu hoá khác nhau, việc lựa chọn phương pháp này tuỳ thuộc vào bệnh lý cũng như thói quen của phẫu thuật viên. Phương pháp đơn giản nhất là nối ống mật chủ-tá tràng, tuy nhiên đã có nhiều nhược điểm: để lại túi bịt ống mật chủ phía dưới là nguyên nhân của lắng đọng sỏi và ung thư hoá, nhiễm trùng ngược dòng. Xu hướng hiện nay là nối ống mật chủ-hỗng tràng theo phương pháp Roux-en-Y với nhiều ưu điểm: tránh được nhiễm trùng ngược dòng, không có túi bịt ống mật chủ.
Phương pháp mở rộng cơ Oddi qua đường tá tràng (còn được gọi là nối ống mật chủ - tá tràng bên trong).
Phương pháp nối ống mật chủ tá tràng kiểu miệng nối bên bên: Dễ làm, ít biến chứng nhưng có nguy cơ nhiễm trùng ngược dòng do các vi khuẩn đường ruột, giun, thức ăn trào lên đường mật.
Phương pháp nối ống mật chủ - hỗng tràng kiểu Ronal-Smith: được áp dụng trong trường hợp ống mật chủ bị chèn ép và u đầu tuỵ gây hẹp tá tràng.
Phương pháp nối ống mật chủ – hỗng tràng kiểu Roux en Y: có ưu điểm hạn chế tỷ lệ nhiễm trùng đường mật ngược dòng do trào ngược.
Phẫu thuật cắt phân thuỳ + hạ phân thùy gan trong điều trị sỏi gan.
Điều trị sỏi không phẫu thuật bằng thảo dược
Tán sỏi từ các dược liệu tự nhiên là một phương pháp điều trị bệnh sỏi rất hiệu quả và an toàn, ít gây tác dụng phụ, hạn chế khả năng sỏi tái phát lại sau điều trị. Một số dược liệu tự nhiên hỗ trợ tán sỏi hiệu quả như: trái sung, kim tiền thảo, hương phụ…
Hiện nay theo tây y thì có một số phương pháp trị sỏi như tán sỏi qua da, phẫu thuật trực tiếp lấy bùn sỏi, viên sỏi ra. Tuy nhiên người bệnh cần biết thêm là: Sỏi là bệnh mãn tính, có khả năng tái phát cao, đặc biệt là có liên quan mật thiết đến các bộ phận khác như gan, mật, thận…nên mặc dù đã phẫu thuật lấy sỏi thì sỏi vẫn có thể tái phát bất cứ lúc nào. Từ đó người bệnh cần có phương pháp đề phòng (ăn kiêng, dùng thuốc hỗ trợ) sỏi tái phát, biến chứng.
Điều trị sỏi bằng dược liệu tự nhiên không những hỗ trợ tán sỏi mà còn cải thiện chức năng gan mật, thận…từ đó hạn chế tối đa những biến chứng, phòng ngừa sỏi tăng kích thước, sỏi tái phát.
Thấu hiểu được vai trò, chức năng của hệ thống gan mật cũng như những nguyên nhân gây nên sỏi mật, sỏi túi mật.. Đặc biệt là những trường hợp sau khi phẫu thuật bị tái phát lại bệnh.
Sự kết hợp của các loại thảo dược trên không chỉ tạo ra tác động kép: lợi mật, tăng vận động đường mật, kháng khuẩn và kháng viêm, từ đó giúp điều chỉnh được rối loạn của hệ thống gan mật nên ngăn được nguy cơ tái phát sỏi, mà còn là một giải pháp hữu ích để giúp bạn loại bỏ hoàn toàn các biến chứng sau cắt túi mật trên đường tiêu hóa.
0 coment�rios:
Đăng nhận xét